Quy định về giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là cơ sở pháp lý để xác định phạm vi xét xử của Tòa án cấp sơ thẩm (được xét xử những bị cáo nào, hành vi nào và theo tội danh nào), đồng thời cũng thể hiện được mối quan hệ chặt chẽ giữa Viện kiểm sát và Tòa án trong tố tụng hình sự.
Điều 298 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định:
“1. Tòa án xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà Viện kiểm sát truy tố và Tòa án đã quyết định đưa vụ án ra xét xử.
2. Tòa án có thể xét xử bị cáo theo khoản khác với khoản mà Viện kiểm sát đã truy tố trong cùng một điều luật hoặc về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà Viện kiểm sát đã truy tố.
3. Trường hợp xét thấy cần xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn tội danh Viện kiểm sát truy tố thì Tòa án trả hồ sơ để Viện kiểm sát truy tố lại và thông báo rõ lý do cho bị cáo hoặc người đại diện của bị cáo, người bào chữa biết; nếu Viện kiểm sát vẫn giữ tội danh đã truy tố thì Tòa án có quyền xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn đó”.
Theo quy định trên, Toà án thực hiện chức năng xét xử đó chính là việc làm trọng tài phân xử quan điểm giữa bên buộc tội và bên bào chữa. Tòa án không có chức năng buộc tội nên Tòa án chỉ xét xử bị cáo và hành vi mà Viện kiểm sát truy tố và Tòa án quyết định đưa ra xét xử, còn về tội danh là do Hội đồng xét xử quyết định sau khi đã xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo, người làm chứng, nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền, lợi ích hợp pháp. Tòa án không được xét xử những người và những hành vi mà Viện kiểm sát không truy tố. Trong quá trình chuẩn bị xét xử mà Tòa án phát hiện tội phạm mới hoặc người phạm tội mới thì quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung theo quy định tại khoản 1 Điều 280 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Tại phiên tòa, qua xét xử phát hiện có việc bỏ lọt tội phạm, Hội đồng xét xử ra quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc yêu cầu Viện kiểm sát khởi tố vụ án theo quy định của Điều 153 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
So với Điều 196 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, Điều 298 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 bổ sung khoản 3. Quy định mới này đã mở rộng phạm vi xét xử cho phép Tòa án được xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn so với tội danh mà Viện kiểm sát truy tố sau khi đã trả hồ sơ để Viện kiểm sát truy tố lại.
Có quan điểm cho rằng “Nếu Toà án được quyền xét xử tội danh nặng hơn tội danh Viện kiểm sát truy tố, Toà án trở thành cơ quan vừa thực hiện chức năng buộc tội, lại vừa thực hiện chức năng xét xử”. Theo quan điểm cá nhân, việc Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định Toà án có quyền xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn tội danh Viện kiểm sát truy tố là phù hợp với nguyên tắc độc lập khi xét xử, phù hợp với chức năng thực hiện quyền tư pháp của Toà án. Quy định như điều luật không phải biến Toà án thành cơ quan buộc tội, lạm quyền, bởi dù được quyền xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn tội danh Viện kiểm sát truy tố, thì tội danh đó cũng phải phù hợp với hành vi mà bị cáo đã thực hiện và đã được Cơ quan điều tra khởi tố, điều tra; Viện kiểm sát truy tố. Mặt khác, để thực hiện việc xét xử theo tội danh nặng hơn tội danh mà Viện kiểm sát truy tố, Toà án cần thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về thẩm quyền xét xử của Toà án các cấp, về thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm và về việc bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo.
Ngoài ra, khoản 2 Điều 298 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 cũng quy định “Tòa án có thể xét xử bị cáo theo khoản khác với khoản mà Viện kiểm sát đã truy tố trong cùng một điều luật hoặc về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà Viện kiểm sát đã truy tố”. Theo hướng dẫn tại Công văn số 01/2017/GĐ-TANDTC, ngày 07/4/2017 của Tòa án nhân dân tối cao về việc “Giải đáp một số vấn đề nghiệp vụ”, trong đó tại Mục 2, Phần II của Công văn này có giải đáp đối với vướng mắc “Giới hạn của việc xét xử có quy định Tòa án có quyền xét xử khoản khác nặng hơn với khoản mà Viện kiểm sát đã truy tố trong cùng một điều luật. Vậy trong quyết định đưa vụ án ra xét xử có phải ghi rõ khoản nặng hơn mà Tòa án sẽ xét xử không? Nếu không ghi rõ thì có bị xem là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng vì ảnh hưởng đến quyền bào chữa của bị cáo không?”. Theo đó, Tòa án nhân dân tối cao đã giải đáp như sau: “Trường hợp nêu trên, Tòa án trả hồ sơ để Viện kiểm sát truy tố lại và thông báo rõ lý do cho bị cáo hoặc người đại diện của bị cáo, người bào chữa biết. Nếu Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố thì Tòa án có quyền xét xử bị cáo về khoản nặng hơn. Trong trường hợp này, Quyết định đưa vụ án ra xét xử phải ghi rõ tội danh, điều, khoản của Bộ luật hình sự mà Viện kiểm sát truy tố và điều, khoản của Bộ luật hình sự mà Tòa án sẽ xét xử để bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo; nếu Quyết định đưa vụ án ra xét xử không ghi rõ tội danh, điều, khoản của Bộ luật hình sự mà Viện kiểm sát truy tố và điều, khoản của Bộ luật hình sự mà Tòa án sẽ xét xử là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng”…
Tại Điều 7 Thông tư liên tịch số 02/2017/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP ngày 22/12/2017, về phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong thực hiện một số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về trả hồ sơ để điều tra bổ sung quy định:
“Trường hợp Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung khi có căn cứ cho rằng bị can hoặc bị cáo phạm tội khác nặng hơn tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố thì thực hiện như sau:
1. Trường hợp phải thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự, quyết định khởi tố bị can về tội danh khác nặng hơn thì Viện kiểm sát trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra để điều tra bổ sung để thay đổi tội danh và kết luận điều tra về tội danh khác nặng hơn;
2. Trường hợp Viện kiểm sát đã yêu cầu mà Cơ quan điều tra không thực hiện thì Viện kiểm sát ra quyết định thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự, quyết định khởi tố bị can về tội danh khác nặng hơn và yêu cầu Cơ quan điều tra thực hiện theo quy định tại Điều 156 và Điều 180 của Bộ luật tố tụng hình sự.”
Bộ luật Tố tụng hình sự 2003, Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 đều quy định Tòa án có thẩm quyền xét xử về khoản khác nặng hơn trong cùng một điều luật mà Viện kiểm sát đã truy tố, không cần trả lại hồ sơ cho Viện kiểm sát để truy tố lại. Tòa án chỉ không được phép xét xử về tội danh khác nặng hơn và khi xét thấy cần xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn tội danh Viện kiểm sát truy tố thì Tòa án phải trả hồ sơ điều tra bổ sung để thực hiện thủ tục thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự, quyết định khởi tố bị can về tội danh khác nặng hơn theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 và Thông tư liên tịch 02/2017/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP.
Như vậy, nội dung “Giải đáp một số vấn đề nghiệp vụ” tại Mục 2, Phần II Công văn số 01/2017/GĐ-TANDTC ngày 07/4/2017 của Tòa án nhân dân tối cao như nêu trên, về việc hướng dẫn Tòa án các cấp trả hồ sơ để truy tố lại trong trường hợp cần xét xử bị cáo về khoản khác nặng hơn với khoản mà Viện Kiểm sát đã truy tố trong cùng điều luật là không thống nhất với quy định tại Điều 298 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 và Điều 7 Thông tư liên tịch 02/2017/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP gây khó khăn, bất cập trong áp dụng pháp luật và kéo dài thời gian giải quyết các vụ án hình sự.
Do đó, để thực hiện đúng “Giới hạn xét xử vụ án hình sự của Tòa án sơ thẩm’’ theo quy định tại Điều 298 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 và Thông tư liên tịch 02/2017/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP, về phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong thực hiện một số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về trả hồ sơ để điều tra bổ sung đảm bảo quyền bào chữa cho bị cáo, Tòa án nhân dân tối cao cần ban hành văn bản hướng dẫn áp dụng thống nhất với các quy định luật nêu trên.
Phượng Linh Viện KSND huyện Dương Minh Châu